Với nhu cầu ngày càng tăng từ thị trường EU đối với sản phẩm bền vững, Việt Nam có nhiều lợi thế khai thác từ nguồn nguyên liệu phong phú đến cam kết mạnh mẽ với phát triển xanh, cũng như đảm bảo tiêu chuẩn cao về môi trường và xã hội. Điều này không chỉ giúp doanh nghiệp Việt Nam tiếp cận sâu hơn vào chuỗi cung ứng của EU mà còn gia tăng giá trị thương hiệu và năng lực cạnh tranh trên thị trường quốc tế.
EU là một trong những đối tác thương mại và đầu tư hàng đầu của Việt Nam. Trong đó, vai trò của Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – EU (EVFTA) và Hiệp định Bảo hộ Đầu tư giữa Việt Nam và Liên minh châu Âu (EVIPA), giúp tạo điều kiện thuận lợi cho Việt Nam trong việc thúc đẩy hợp tác thương mại, thu hút đầu tư và chuyển giao công nghệ từ EU.
Theo số liệu của Tổng cục Hải quan, sau 4 năm thực thi Hiệp định EVFTA, kim ngạch thương mại hai chiều giữa Việt Nam và EU liên tục tăng: từ 48,9 tỷ USD năm trước khi Hiệp định có hiệu lực lên 63,7 tỷ USD vào năm thứ 4 Hiệp định có hiệu lực, với mức tăng trưởng bình quân 7%/năm; trong đó xuất khẩu sang thị trường EU tăng bình quân 8,7%/năm, nhập khẩu từ thị trường EU tăng bình quân 2,8%/năm. EU hiện là thị trường xuất khẩu lớn thứ ba và thị trường nhập khẩu lớn thứ năm của Việt Nam.
Trong 9 tháng/2024, Việt Nam xuất khẩu sang EU (27 nước) đạt 38,02 tỷ USD, tăng 17%, tương ứng tăng 5,51 tỷ USD so với cùng kỳ năm trước. Việt Nam hiện đứng vị trí Top 10 nhà cung ứng hàng hóa ngoại khối lớn nhất cho EU và là đối tác thương mại lớn nhất của EU trong khối ASEAN.
Tuy nhiên, để tham gia sâu vào chuỗi cung ứng với các đối tác EU, các ngành hàng xuất khẩu của Việt Nam cần thích ứng với xu thế chuyển đổi xanh. Một trong những mặt hàng xuất khẩu quan trọng của Việt Nam vào EU hiện nay là nông sản. Để đáp ứng yêu cầu khắt khe của thị trường này, Bộ Công Thương đã lưu ý các doanh nghiệp khi xuất khẩu các sản phẩm nông sản sang EU cần chú ý đáp ứng đầy đủ các quy định nhập khẩu khác, đặc biệt là các quy định về vệ sinh an toàn thực phẩm, kiểm dịch thực vật, ghi nhãn… Các quy định nhập khẩu của EU đối với nông sản nói chung và rau quả nói riêng rất khắt khe và thay đổi thường xuyên nên doanh nghiệp xuất khẩu phải liên tục cập nhật và kết nối chặt chẽ với nhà nhập khẩu để đáp ứng các quy định đưa ra.
Chia sẻ hội thảo “Chuyển đổi xanh trong sản xuất nông sản, thực phẩm thúc đẩy sang Liên minh châu Âu (EU)” do Bộ Công Thương phối hợp với Ủy ban châu Âu tổ chức, ông Lê Hoàng Tài - Phó Cục trưởng Cục xúc tiến thương mại, Bộ Công Thương cho biết, Việt Nam đang tích cực thực hiện những cam kết tại Hội nghị lần thứ 26 các bên tham gia Công ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu (COP26), hướng tới mục tiêu Net Zero vào năm 2050 thông qua Chiến lược Quốc gia về Tăng trưởng Xanh. Trong bối cảnh này, Bộ Công Thương sẽ tiếp tục hỗ trợ doanh nghiệp Việt Nam trong việc áp dụng các tiêu chuẩn ESG (môi trường – xã hội – quản trị doanh nghiệp), xúc tiến thương mại, đầu tư vào công nghệ xanh, và thúc đẩy mô hình sản xuất bền vững, qua đó nâng cao năng lực cạnh tranh và tham gia sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu.
Nhấn mạnh tầm quan trọng của Thỏa thuận Xanh Châu Âu (EGD) trong việc định hình các chính sách bền vững, ông Jean-Jacques Bouflet - Phó chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp châu Âu tại Việt Nam (EuroCham)v đã chỉ ra những thách thức mới mà các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam phải đối mặt, đặc biệt là từ Cơ chế Điều chỉnh Carbon Biên giới (CBAM) và Quy định Chống Phá rừng (EUDR). Ông khẳng định rằng việc tuân thủ các tiêu chuẩn mới này không chỉ là yêu cầu bắt buộc mà còn mang lại cơ hội lớn cho doanh nghiệp Việt Nam tham gia sâu hơn vào chuỗi cung ứng toàn cầu. Bên cạnh đó, ông đánh giá cao sự hợp tác giữa EU và Việt Nam trong các lĩnh vực như năng lượng tái tạo, kinh tế tuần hoàn và chuyển giao công nghệ, qua đó thúc đẩy mục tiêu phát triển bền vững và trung hòa carbon của cả hai bên.
Dưới góc nhìn chuyên gia, ông Laurent Lourdais, Phó trưởng ban Thương mại, Phái đoàn Liên minh châu Âu tại Việt Nam chia sẻ, những tiêu chuẩn khắt khe mà EU áp dụng đối với nông sản và thực phẩm nhập khẩu hiện nay tập trung vào các quy định như CBAM và EUDR. Để duy trì sự hiện diện tại thị trường EU, doanh nghiệp Việt Nam phải không ngừng đổi mới sản xuất, đảm bảo tiêu chí về môi trường và xã hội, xây dựng chuỗi cung ứng bền vững và tăng cường khả năng truy xuất nguồn gốc, đáp ứng kỳ vọng ngày càng cao từ người tiêu dùng châu Âu.
Đồng tình với quan điểm trên, PGS. TS. Nguyễn Đình Thọ - Viện trưởng Viện chiến lược, Chính sách Tài nguyên và Môi trường, Bộ Tài nguyên và Môi trường cũng đề cập đến bối cảnh toàn cầu với ba khủng hoảng chính: biến đổi khí hậu, ô nhiễm môi trường và mất đa dạng sinh học. Trong bối cảnh này, Việt Nam cần chuyển đổi mạnh mẽ sang kinh tế xanh, hướng tới một nền kinh tế ít phát thải, hiệu quả tài nguyên và bền vững. Ông cũng nêu bật vai trò của Chính phủ Việt Nam trong việc xây dựng chính sách và hỗ trợ doanh nghiệp thông qua các chiến lược như Chiến lược Quốc gia về Tăng trưởng Xanh và các chương trình hợp tác quốc tế, nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh, thu hút đầu tư và đáp ứng các tiêu chuẩn khắt khe của EU.
Các chuyên gia cũng cho rằng, các doanh nghiệp Việt Nam cần hiểu rõ vị trí của doanh nghiệp xuất khẩu trong cơ chế hoạt động của CBAM; xem xét lại quy trình sản xuất và xây dựng cơ sở dữ liệu về phát thải trong quá trình sản xuất các hàng hóa CBAM; thực hiện kiểm kê lượng phát thải và lên kế hoạch giảm phát thải trong quá trình sản xuất. Ðể thực hiện điều này, doanh nghiệp cần nghiên cứu, tổ chức lại bộ máy phục vụ cho công tác kiểm kê phát thải khí nhà kính. Xây dựng hệ thống, cơ sở dữ liệu nội bộ nhằm thu thập và lưu trữ dữ liệu phục vụ cho các yêu cầu báo cáo từ các nhà nhập khẩu EU. Theo dõi và cập nhật các văn bản hướng dẫn thực hiện kiểm kê phát thải sản phẩm từ các cơ quan quản lý và các hiệp hội ngành nghề. Đồng thời, cần đầu tư vào nghiên cứu và phát triển để tạo ra các công nghệ và sản phẩm mới đáp ứng các tiêu chuẩn bền vững EU đặt ra.
Nguồn: Bộ Công Thương